Cà phê Mưa Rừng với anh em Lôi Hổ July 2014
Ai đã từng qua Dakto, Daksan, Ben Hét, Ngã ba Biên
giới vùng Tây Nguyên,
Thấy xác quân thù vùi thân nơi đây, vùi thân nơi
đây...
Chiến thắng Tam Biên Kiêu Hùng... Anh Hùng Trấn Tam
Biên
Lời bài hát của cục Chính Huấn năm 1972
Ta cũng đã một thời Tam Biên oai trấn
Lạnh tím người ba biên giới mưa bay...
Thơ Trương Minh Dũng
Đối với nhiều người Việt Nam trước năm 1975, Ban Mê Thuột
hay Pleiku là hai thành phố nhỏ. Mà nhỏ thật đấy. Năm 1975, dân số
Ban Mê Thuột khoảng trăm ngàn người. Pleiku hình như nhiều hơn một
chút.
Viết về Pleiku, nhưng tại sao lại có Ban Mê Thuột ... dính vào trong
này, chắc sẽ có người hỏi. Xin thưa, viết về Pleiku nhưng lại nhét... Ban
Mê Thuột vào là bởi, kẻ hèn này, tức người viết bài này sinh ra và lớn lên ở
Ban Mê Thuột, một thành phố nằm ở phía Nam của Pleiku khoảng 250 cây số
đường chim bay. Vì tôi viết bài này cho nên xin phép cho tôi được nhét
chút ... Ban Mê Thuột vào để cái tâm hồn già này được dịp phêu lưu trong khoảnh
khắc dưới ánh "Nắng Vàng Cố Hương" ngày cũ. Xa cố hương lâu quá
rồi cho nên tôi cũng đâm ra hơi lẩm cẩm, xin quý vị niệm tình miễn chấp...
Cách đây chừng vài tháng, người đàn anh khả kính của tôi là "Anh
Hùng trấn Tam Biên" Trung Tá Võ Ý, phi đoàn trưởng phi đoàn 118 đóng tại
Pleiku đã .... "làm phiền" tôi khá nhiều. Mới đầu, ngài gọi điện
thoại, bóng gió xa gần, anh em Pleiku sắp sửa ra tập san, chú út (anh em gọi
tôi như thế ở phi đoàn 114) viết cho anh em một bài. Ngài lại còn khéo
léo khen là tôi viết văn hay, người ta đọc cảm động làm tôi khoái tỉ quá
chừng. Sau đó, sợ tôi quên, lâu lâu ngài lại gọi, lại khen (tôi lại càng
khoái tỉ), lại nhắc nhở cái bổn phận thiêng liêng của tôi đối với cái tập san
của thành phố Pleiku.
Thấy ngài có tình với cái thành phố khỉ ho cò gáy này, dù đó chẳng phải
là nơi ngài sinh ra, chẳng phải là nơi ngài lớn lên, cũng chằng phải là
quê vợ của ngài, nhưng lại là nơi ngài đã "tam biên oai trấn" gần
chục năm trời, tôi phải cảm động. Thôi thì tôi đành viết. Nhưng cái
tật của tôi là, tôi không viết thì thôi nhưng nếu viết thì phải viết thật,
không thể dối lòng mình được. Quý vị độc giả có buồn thì xin tha lỗi cho
tôi. Tính tôi xưa nay là như thế...
Thưa quý vị, Pleiku đối với tôi là một thành phố... buồn và đáng chán vô
cùng.
Xin quý vị hãy khoan, đừng nhăn mặt chửi thề hay chửi tôi, cho phép tôi
được cắt nghĩa....
Trước hết, theo sự nhận xét của tôi, Pleiku là một thị trấn nhỏ cô quạnh
đìu hiu miền rừng núi, chẳng có gì đặc biệt hoặc đáng nói ngoài những đồn điền
cà phê và cao su do tư bản Tây xây dựng ngày xưa, nhưng được phát triễn và lớn
mạnh là nhờ bởi chiến tranh. Nếu Pleiku không có một địa thế chiến lược
quan trọng, nếu không có cuộc chiến tranh xâm lược của Việt Cộng thì Pleiku mãi
mãi chỉ là một thành phố nhỏ, buồn và hiền lành với một số dân cư thưa thớt,
người Thượng nhiều hơn người Kinh, và đa số cư nhân là những chủ đồn điền
cao su, cà phê và nhưng dân phu sống bằng nghề này. Nhưng khi chiến tranh
bùng nổ lớn, Pleiku đã thay đồi. Vì địa thế chiến lược, Pleiku đã trở
thành một thành phố chiến lược quan trọng. Quan trọng đến nỗi, chính phủ
đã bộ đặt bộ tư lệnh của quân đoàn II tại đây với 2 sư đoàn bộ binh, Không Quân
Hoa Kỳ cho xây một đài kiểm báo, thêm vào đó là một sư đoàn Không Quân với một
phi đoàn khu trục, một phi đoàn quan sát, mấy phi đoàn trực thăng. Đó là
chưa nói đến những binh chủng khác. Cũng có thể nói, vì những lý do đó,
Pleiku đã trở thành một thành phố lính không biết vào lúc nào. Nếu có ai
đi ra ngoài đường, bất kể ngày đêm, xin đếm giùm cho tôi có bao nhiêu chiếc xe
dân sự hay chỉ toàn thấy xe nhà binh và xe cảnh sát.
Riêng cá nhân tôi, kỷ niệm về thành phố Pleiku là những kỷ niệm khó
quên, vui thì ít nhưng... nhớ nhà và chạy pháo kích thì nhiều...
Năm 1972, tôi tốt nghiệp khoá 39 hoa tiêu, về phi đoàn 114 Nha
Trang. Lúc ấy chiến trường sôi động mạnh, đánh đấm tùm lum, nhất là ở
vùng Tam Biên. Sau vài tuần lễ bay huấn luyện thêm về hành quân, tập bắn
rocket, tôi khăn gói đi biệt phái. Đi đâu, xin thưa, chỗ nào hung hãn
nhất, đánh nhau nhiều nhất thì xin dành cho tân thiếu uý mới ra trường và chẳng
biết mẹ gì.
"Đi biệt phái Pleiku bay bổng một thời gian cho biết chút mùi chiến
trận với anh em." ông đại uý Dương vừa ghi tên tôi lên bảng phi lệnh vừa
bảo như thế.
Dĩ nhiên, giống như mọi người, tôi cũng muốn đi biệt phái ở những chỗ có
nhiều “em gái hậu phương” để vi vút như Phan Thiết, Đà Lạt, Lâm Đồng hay Ban Mê
Thuột, nhưng biết thân phận mình chỉ là thiếu úy mới ra trường, giờ bay mới hơn
trăm giờ, chưa bằng giờ ... đau lậu của đàn anh cho nên tôi không dám có ý
kiến. Hơn nữa, tôi còn trẻ, lại có tí máu mạo hiểm trong người, cũng muốn
xem thử cái chiến trường tam biên nó hung hãn như thế nào mà báo chí nói quá
chừng, muốn xem thử quân ta đánh đấm ra sao...
Thế là, một buổi sáng đẹp trời, tôi và đại úy Nguyễn Minh Huy khăn gói
lên đường, cất cánh chiếc L-19 lấy hướng đi Pleiku. Tôi biết chiến trường
Pleiku chẳng hiền lành gì nhưng người ta sao mình vậy, ráng tập cho quen...
(Lúc ấy, tôi cũng không ngờ, cả cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi của tôi
gần 4 năm, Pleiku và Phù Cát, hai biệt đội hắc ám nhất, buồn nhất và nguy hiểm
nhất của phi đoàn chính là chỗ mà tôi "được" đi biệt phái nhiều
nhất. Vì tôi bay rất nhiều và rất hăng, tôi còn nhớ mình đã lấy được rất nhiều
huy chương, nhận được nhiều lời khen thưởng, nhưng một buổi sáng, tình cờ vào
phòng nhân viên ở sư đoàn mở hồ sơ quân bạ ra coi thử, tôi thấy tôi chỉ có một
cái Phi Vụ bội tinh là cái không ai có thế ăn cắp được, còn bao nhiêu cái huy
chương khác, và đặc biệt cái ngành dương liễu (Tham mưu trưởng của tướng Toàn
đích thân gọi máy lấy tên tôi và số quân) thì đã không cánh mà bay. Mới
đầu tôi giận lắm nhưng sau ngồi nghĩ lại, tôi thấy có người phải cần những cái
huy chương này của tôi hơn tôi, thôi thì để cho họ. Phần tôi, lúc ấy đeo
lon thiếu úy đã gần 4 năm và không hề lấy thế làm buồn, Việt Cộng bắn tôi hoài
mà không... rụng nổi thì mừng rồi, nhằm nhò gì ba cái đó. Tôi chẳng cần
những thứ đó. Hơn nữa, thân phận thiếu úy thấp cổ bé miệng, có muốn đi
kiện cũng không biết kiện ai. Tôi khoái ... đi nhậu và bù khú với bạn bè
hơn là ngồi đếm xem thử mình có được bao nhiêu cái huy chương, tính coi chừng
nào mình mang lon trung úy ... Cũng xin nói thêm, “ban kiểm duyệt” xin
đừng đục bỏ khúc này của tôi. Nếu đăng được thì cho đăng nguyên con, còn
không thì thôi. Xin đa tạ.)
Sáng hôm đó, phải từ giã một thành phố tươi đẹp miền duyên hải, nơi có
người mình yêu, nơi có không biết bao nhiêu là bạn bè thì buồn và nhớ lắm,
nhưng khi tôi bay nửa đường, thò tay đổi UHF sang tần số Picock để báo cáo thì
tôi giật mình ngay...
Tôi phải nói thêm ở đây, một người phi công chưa cất cánh lên trời nhưng
có thế biết ngay được chiến trường đang sôi động hay im lìm ở ngay giây phút
người ấy mở máy gọi đài kiểm báo. Nếu đài kiểm báo bận rộn tơi bời, mình
chờ mãi không nói được ấy là chiến trường đang đụng nặng lắm, tàu bay lên xuống
ầm ầm, xin phép và báo cáo đủ thứ, phải chờ cho đến phiên mình. Tôi vừa
bật sang tần số đài kiểm báo Picock thì nghe được không biết bao nhiêu là
traffic. Khu trục gọi, trực thăng gọi, vận tải gọi, hết Việt Nam rồi đến
Tây gọi, tiếng Việt tiếng Mỹ văng đầy trời đất cứ loạn cả lên làm cho anh thiếu
úy sữa ... mới ra trường chẳng biết mẹ gì chới với. May nhờ ngài đại úy
Huy giúp, báo cáo và xin đầy đủ chi tiết về tác xạ pháo binh nơi Pickock....
(Chỉ sợ nhất là đang bay mà nhìn thấy bom của B-52 rơi lả tả xuống sát ngay bên
cánh tàu bay của mình. Cái này chúng tôi gọi là pháo binh nặng.)
Rời tần số đài kiểm báo sang tần số phi trường, cũng vẫn bận rộn liên
miên. Khi phi trường Pleiku cuối cùng hiện ra dưới mắt tôi, càng nhìn thì
tôi càng thấy muốn hoa mắt. Mẹ kiếp, sao mà lắm tàu bay thế này?
Phi đạo khá dài và phi trường rất là lớn nhưng lại bận rộn vô cùng với
hàng trăm phi cơ Mỹ Việt xin hạ cánh hay cất cánh cứ loạn cả lên. Nhưng
tôi thích nhất là những chiếc khu trực cơ Skyraider A-1 nằm đẹp đẻ oai vệ trong
những ụ vuông hay đang di chuyển để chuẩn bị cất cánh, bom đeo lòng
thòng. Chong chóng phi cơ quay chậm từng vòng, con tàu rung lên từng chập
và thong thả lăn bánh đi coi oai phong lẫm liệt như những chúa sơn lâm trước
giờ giao đấu...
Đang di chuyển phi cơ theo lời chỉ bảo của đại úy Huy thì đạn pháo kích
rớt ầm ầm. Đài kiềm soát la nhặng lên là phi trường bị pháo, phi trường
bị đóng cửa... (Mẹ, pháo rớt xuống cả chục trái rồi quý vị mới la toán lên, làm
như chúng tôi không biết ấy. Sao lúc nãy không la hộ cho chúng tôi nhờ?)
Chúng tôi tắt máy, phóng xuống khỏi phi cơ, chạy đi tìm một chỗ
trốn. Tôi sợ vãi đái ra quần cứ nhìn quanh quất làm như mình có thần nhãn
để tìm pháo, nhưng đại úy Huy thì lại tà tà, chẳng coi ra gì. Lâu lâu lại
còn nhìn tôi cười nhẹ, nhưng không nói gì...
Đấy, phi trường Cù Hanh thành phố Pleiku đã chào đón ông thiếu úy sữa
như thế đấy. Mẹ, hú cả hồn, teo cả chim...
Sau vài trái pháo cầu may chẳng chết ai, còi báo động chấm dứt, chúng
tôi lại leo lên phi cơ, di chuyển về bãi đậu của biệt đội. Tại đây, phi
hành đoàn của biệt đội cũ, khăn gói đồ đạc đã chuẩn bị sẵn sàng, chờ chúng tôi
dưới cánh tàu bay chuẩn bị bàn giao. Mấy ông phi công ... già trải tấm
bản đồ trên capo chiếc xe díp, chỉ chỉ chỏ chỏ, dặn dò và chừi thề tùm lum, nào
là sư đoàn 23 làm việc chỗ này, sư đoàn 22 chỗ này, coi chừng chỗ này có phòng
không, chỗ kia có thể đáp khẩn cấp nếu bị bắn...
Tôi nghe như vịt nghe sấm, chẳng hiểu được một tí gì, nhưng mà càng nghe
thì càng nản. Quả thật tôi chính là thiếu úy sữa, giờ bay đếch bằng giờ
đau lậu của đàn anh, chẳng biết mẹ gì....
Đang nói chuyện chưa đâu vào đâu, lại có chiếc xe díp màu xanh thắng gấp
gần đó nghe rùng rợn. Đại úy Hạnh alô bước xuống, bộ đồ trê di nhầu nát,
áo bỏ ngoài quần, chẳng lon chẳng lá, râu ria chẳng cạo, chân mang dép, “mặt
mày có vẻ không vui”, chưa kịp chào ai, ngài đại úy đã sủa vang:
-Cái biệt đội 114 này làm việc hay thật. Mẹ, lần nào cũng thế, hễ hôm
nào có đổi biệt đội là phi cơ cất cánh trễ tùm lum. Quân đoàn réo quá
trời, mấy ông làm ơn...
Nói tới đó thì đại úy Hạnh nhận ra đại úy Huy, cũng là chỗ bạn bè cũ,
cùng khoá, liền xuống giọng:
-Ôi giời, Huy, mày cho một chiếc L-19 cất cánh gấp. Tụi nó đụng
tùm lum...
Đại úy Huy chắc cũng đang sầu đời vì bị đày làm lính thố miền cao, liền
chủi thề:
-Cất cánh ... C... tao. Tụi 118 cũng có một phi đoàn ở đây, cũng
ăn lương chính phủ như tao, sao không bảo tụi nó cất cánh đi mà phải chờ tới
114 tụi tao. Mẹ, toàn là những chuyện bất công vô lý...
Đại úy Hạnh, dân “tam biên oai trấn” cũng đã nhiều năm, không dễ gì để
bị ăn hiếp, liền đáp:
-Mày muốn kiện thì lên quân đoàn mà làm đơn, tao sẵn sàng ký phụ cho
mày. Thằng này chỉ là Alô phắc hạng bét, đừng có kiếm chuyện với tao...
Nói thì ngon như thế nhưng đại úy Huy lại quay sang tôi, ngón tay chỉ
vào một chỗ trên bản đồ nằm ở phía Bắc Kon Tum:
-Mình làm việc chỗ này. Em lấy toạ độ, phương hướng, tác xạ pháo,
mình cất cánh liền...
Đại úy Hạnh quay trở lại chiếc xe díp, miệng cười cười:
-Ráng chịu khó đi, sáng mai tao mời mày đi ăn sáng với tao. Tao
biết chỗ này có một em thơm lắm...
Thế là chúng tôi quẳng hết hành lý lên chiếc xe díp cho nhẹ tàu rồi cho
tàu đổ xăng, gắn rocket và chuẩn bị cất cánh. 10 phút sau, tôi và đại úy
Huy đã ra so hàng ở cuối phi đạo. Thử máy và sau khi tháo khoá an toàn
rocket xong, tôi bấm máy:
-Pleiku, Mustang 10 cuối đường bay, xin ra phi đạo cất cánh...
Tàu vừa cất cánh, lấy đủ một chút cao độ là đại úy Huy làm việc như một
cái máy. Trên L-19 có 3 cái PRC-25, 1 VHF, 1 UHF, nhưng ngài đại úy có
đến 10 ngón tay nên ngài sử dụng không thiếu cái nào. Cái gọi cho bộ chỉ
huy Trung Đoàn, cái gọi cho Tiểu Đoàn, cái liên lạc với Alô để xin những chỉ
thị mới nhất, cái liên lạc với Picock hay khu trục.
Lần đầu tiên được trực tiếp tham gia vào cuộc chiến chống xâm lăng để
bảo vệ quê hương mình, tôi cảm thấy hào hứng vô cùng. Hào hứng đến độ coi
thường những hiểm nguy đầy dẫy quanh tôi lúc ấy... Đó là lần đầu tiên tôi
nghe được qua máy vô tuyến những giọng nói của anh em bộ binh đang hành quân
duới đất, lần đầu tiên được nhìn thấy cảnh bom rơi đạn nổ, những cảnh trận địa
pháo nát người, tan đất... Đó là lần đầu tiên tôi biết được thế nào là sự
hy sinh của hững người lính QLVNCH. Sau này, tôi đã nhìn thấy cảnh những chiếc
khu trục bị bắn nổ tung trên trời hay bắn rớt, những chiếc trực thăng bị bắn
bốc lửa, vân vân và vân vân...
Kính thưa quý vị, đó là phi vụ hành quân đầu tiên của tôi ở
Pleiku. Một phi vụ hành quân đầu đời của một ông thiếu úy sữa. Phi
vụ chẳng có gì đặc sắc, hào hứng hay hào hùng. Chỉ là một phi vụ đơn giản
như trăm ngàn phi vụ anh em bay thời đó. Nhưng đó là phi vụ hành quân đầu
tiên của tôi, tôi không thể nào quên được..
Những năm tiếp theo đó, cứ mỗi tháng một lần, tôi lại xách tàu bay đi
biệt phái Pleiku. Có lúc chiến trường trở nên đẫm máu, cũng có lúc chẳng
có đánh đấm gì. Và càng về sau thì tôi càng quen thuộc với phi trường,
với địa hình, địa thế. Nhưng suốt gần 4 năm, hình như tôi chỉ theo anh em
ra phố Pleiku có một vài lần để nhậu nhẹt. Những lúc còn lại, khi nào
không bay bổng, tôi nằm khì trong barrack đọc sách. Có nhiều lần biệt
phái trúng vào mùa mưa, chúng tôi nằm trong barrack gần suốt hai tuần lễ, vừa
đọc sách vừa nghe tiếng mưa rả rích chung quanh, lâu lâu ngồi dậy, rít một điếu
thuốc Capstan, nhìn mưa rơi nhạt nhoà qua khung cửa sổ, nghĩ lại cũng thấy thú
lắm.
Thành thực mà nói, mỗi lần tôi đi biệt phái lên đây, nhớ bồ nhớ bịch,
tôi đếm từng ngày, chỉ mong tới ngày để về vùng nắng biễn Nha Trang hiền hoà ấm
áp với em, trong một thành phố có đủ thứ tiết mục ăn chơi... Vì thế, nếu
có ai hỏi tôi về thành phố Pleiku, tôi xin trả lời là tôi chẳng biết gì
nhiều...
Tôi chẳng biết gì nhiều nhưng tôi thấy khâm phục những người lính đã một
thời oai trấn tam biên. Các anh em đã chấp nhận sống một cuộc đời âm thầm
ở cái thành phố nhỏ miền núi buồn heo hắt này, tập làm bạn với núi, làm quen
với rừng, chịu đựng những cơn mưa rừng kéo dài vô tận mà không hề lên tiếng
than thở hay phân bì. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, anh em đã âm thầm và
anh dũng gìn giữ từng tấc đất, từng phân đường, từng dúm cỏ của vùng đất xa lạ
này của quê hương.
Anh em chính là những người, như một nhà văn nào đó đã nói, đã chấp nhận
làm bóng tối để nuôi dưỡng mặt trời.
Năm 75, thành phố Pleiku di tản. Tôi bay trên con đường quốc lộ số
7, chảy nước mắt và đứt từng khúc ruột nhìn đồng bào tôi, quân đội tôi tan vở
thành từng mảnh ở phía dưới mà không làm gì được.
Từ năm 1972, ngày bay phi vụ đầu đời cho đến năm nay là năm 2010,
chỉ còn thiếu 1 năm vài tháng nữa là đúng 40 năm. 40 năm một đời
người trôi qua nhanh như một giấc mộng. Nhưng nhớ lại, hồi đó, 15 ngày
biệt phái Pleiku sao mà dài thăm thẳm...
Vài hàng viết về Pleiku để kính tặng những người anh hùng biên trấn,
những chiến sĩ của QLVNCH đã vị quốc vong thân cho chúng tôi được sống an
toàn. Đồng thời, cũng tưởng nhớ đến những đồng bào đã bỏ mình oan nghiệt
và tức tưởi trong cuộc di tản trên tỉnh lộ 7 năm 1975. Chết trên đường đi
tìm tự do.
Sau ngày 30 tháng 4, tôi lưu vong nơi quê người, sống ở chốn phồn hoa đô
hội, thừa mứa vật chất, giữa những tiếng cười đùa vui vẻ và vô tội của người
chung quanh, tôi cũng giả cười và vui với họ để khỏi bị coi là khác người,
nhưng chẳng ai biết linh hồn tôi là một linh hồn rướm máu, là một biển lửa hận
thù. Không rướm máu làm sao được khi mà mỗi lần cầm chén cơm lên ăn là
mỗi lần nước mắt tôi lả chả rơi xuống bát, tự hỏi giờ này, ở Việt Nam, cha mẹ
anh em tôi ăn gì, những bạn bè đồng đội của tôi đang bị đối xử ra sao, còn sống
hay đã chết? Ăn một miếng ngon tôi cũng thấy mình có tội. Có tội
với những anh em đồng đội tôi còn kẹt lại ở Việt Nam, giờ nay không biết sống chết
như thế nào. Tôi chẳng yêu nước hay anh hùng hơn ai, tôi chỉ là một người
còn có chút lương tri, biết yêu thương và có chút ít tình cảm...
Có lần, một em bé tóc vàng làm trong sở hỏi tôi, “Mày có nhớ nhà không?”
Tôi mau mắn lắc đầu và trả lời: “Không.”
Em bé tóc vàng trợn mắt, lắc đầu, chê tôi là người vô tình.
Tôi chỉ cười nhẹ, nói: “Tối nào tao cũng về thăm quê nhà tao ở Việt Nam cả, làm sao
tao còn nhớ nhà được... (How can I miss home when I come back to visit my home
in Vietnam
every night?)
Em bé tóc vàng ôm tôi khóc và xin lỗi tôi... (Người Mỹ đơn giản và dễ
thương thật)
Cuối cùng, nhân bài này, cho phép tôi xin viết vài hàng để tưởng nhớ đến
thằng em ruột tôi, cố Trung Sĩ Nhất Lê Xuân Bích, Sư đoàn 23 bộ binh, đã bỏ
mình tại chiến trường Cao Nguyên Tân Cảnh mùa hè năm 1972. Em đã đại diện
gia đình mình để đóng góp xương máu gìn giữ quê hương như bao nhiêu gia đình
Việt Nam
khác. Chuyện này cũng bình thường, chẳng có gì đáng nói trong một quê
hương chiến tranh, nơi có hàng ngàn người trai trẻ như em đã nằm xuống mỗi
ngày. Tổ quốc đã ghi ơn. Bích ơi, dù em không còn nữa nhưng hình
ảnh tươi đẹp và hào hùng của em đã sống dậy mỗi một ngày trong lòng mọi người
gia đình ta, đặc biệt là anh, người đã chia xẻ với em bao nhiêu kỷ niệm buồn
vui từ thuở ấu thời cho đến ngày hai anh em mình gạt nước mắt chia tay nhau lên
đường đi lính. Em chết chỉ một lần nhưng gia đình mình mỗi lần nhắc đến
em thì ai cũng chết thêm một lần nữa ở trong lòng, thương nhớ em vô cùng vô
tận...
Ôi, Pleiku, thành phố mưa buồn đất đỏ, kỷ niệm buồn sao nhiều lắm
thay...
Đồng thời, ghi nhận công ơn của những người đã chọn phố núi Pleiku làm
quê hương thứ hai...
Trường Sơn Lê xuân Nhị
Dec 2010
No comments:
Post a Comment